Với thị trường chiếm tỷ trọng lớn nhất là Trung Quốc, ước tính 4 tháng, nhập khẩu của Việt Nam từ Trung Quốc gần 10 tỷ USD, nhưng xuất khẩu vào Trung Quốc ước đạt 3,9 tỷ USD, ước số nhập siêu 4 tháng khoảng 6 tỷ USD. Đây là con số đáng quan tâm khi tính chung 4 tháng Việt Nam chỉ nhập siêu 722 triệu USD.
Trong một diễn đàn gần đây, ông Đào Ngọc Chương, Phó Vụ trưởng Vụ Châu Á-Thái Bình Dương (Bộ Công Thương), cho rằng nguyên nhân của thực trạng này do phần lớn hàng nhập khẩu của Việt Nam là vật tư đầu vào cho sản xuất công nghiệp, nguyên phụ liệu cho gia công xuất khẩu và nhà thầu của các dự án lớn tại Việt Nam là Trung Quốc. Trong khi đó, cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam chưa đa dạng, đại bộ phận tương đồng với hàng Trung Quốc. Những mặt hàng Việt Nam có thế mạnh xuất khẩu lại là tài nguyên như dầu thô, than đá phải giảm do tăng tiêu dùng, chủ trương hạn chế xuất khẩu. Nhìn nhận về việc nhập siêu của Việt Nam, ông Jean-Jacques Bouflet, Trưởng ban kinh tế thương mại Phái đoàn Liên minh châu Âu tại Việt Nam (EU), bày tỏ sự ngạc nhiên về việc Việt Nam xuất siêu sang EU, Hoa Kỳ - những nước chưa ký FTA - nhưng lại nhập siêu từ Trung Quốc: “Câu hỏi đặt ra là Việt Nam chấp nhận nhập siêu trong bao lâu nữa từ Trung Quốc để xuất sang EU, Hoa Kỳ? Tuy nhiên, một trong những rào cản hưởng thuế quan phổ cập là xuất xứ hàng hóa và chỉ ưu đãi cho doanh nghiệp sản xuất hàng của Việt Nam chứ không phải cho doanh nghiệp Trung Quốc. Trong khi đó, Việt Nam lại đang nhập nguyên liệu từ Trung Quốc. Do vậy, Việt Nam cần phải cân nhắc tạo các lợi ích gia tăng để hưởng ưu đãi thuế quan. Thực tế, để hạn chế nhập siêu từ Trung Quốc cũng như các quốc gia và vùng lãnh thổ khác là vấn đề nan giải và cần có các biện pháp lâu dài. Theo đó, giải pháp cho trung và dài hạn là đẩy mạnh công nghiệp hỗ trợ, bởi đây là điều cực kỳ quan trọng. Chẳng hạn trước đây Việt Nam nhập khẩu 12-13 tỷ USD nguyên phụ liệu sản xuất, hiện nay đã có các khu công nghiệp hỗ trợ và các khu vực này phát triển sẽ giảm nhập khẩu. Hoặc việc có Nhà máy Lọc dầu Dung Quất đã góp phần hạn chế nhập khẩu xăng dầu từ Trung Quốc. Bên cạnh đó là tạo thuận lợi cho các tập đoàn đa quốc gia đầu tư cơ sở sản xuất của khu vực châu Á-Thái Bình Dương tại Việt Nam; đẩy mạnh phát triển các ngành sản xuất phục vụ xuất khẩu; có chính sách quản lý nhập khẩu qua đường biên mậu tốt hơn để dịch chuyển từ nhập khẩu biên mậu sang chính ngạch, đảm bảo yêu cầu ổn định sản xuất, xuất khẩu. Tuy nhiên, với lợi thế khoảng cách về mặt địa lý trong vận chuyển, hàng hóa Trung Quốc có giá rẻ và mẫu mã phù hợp, trong khi công nghiệp hỗ trợ trong nước còn kém phát triển, việc Việt Nam giảm nhập siêu từ Trung Quốc vẫn là thách thức lâu dài. |
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét