Ngành than đối mặt với nguy cơ thiếu lao động nghiêm trọng CôngThương - Phóng viên Báo Công Thương đã có cuộc trao đổi với ông Nguyễn Văn Biên - Phó tổng giám đốc Tập đoàn công nghiệp Than và Khoáng sản Việt Nam (Vinacomin) - xung quanh vấn đề trên. Việc tăng giá than bán cho điện vừa giúp ngành than bớt khó khăn; nay Vinacomin lại gánh thêm nỗi lo tăng thuế xuất khẩu than. Như vậy, Vinacomin sẽ phải đối mặt với những khó khăn gì? Đúng việc tăng giá than bán cho ngành điện điều chỉnh từ ngày 20/4/2013 đã giúp cho ngành than giảm được phần bù giá than cho điện. Tuy nhiên, so với cân đối kế hoạch năm 2013 thì việc điều chỉnh này cũng đã chậm 3 tháng 20 ngày, mà sản lượng than tiêu thụ cho điện những tháng đầu năm tăng cao. Vì vậy, trong giai đoạn này, Vinacomin đã phải bù than cho điện trên 1.800 tỷ đồng. Sau khi được điều chỉnh, giá than cho điện hiện nay bằng khoảng 85% giá thành kế hoạch năm 2013; trong khi than xuất khẩu hiện nay đang cạnh tranh khốc liệt với than của các nước, giá bán xuất khẩu sau khi trừ thuế 10% thì cũng chỉ đủ bù đắp chi phí, không có lãi. Theo kế hoạch năm 2013 mà các Bộ đã rà soát, cân đối tài chính với điều kiện giá than cho điện được điều chỉnh từ 1/1/2013, thuế xuất khẩu than 10% thì tập đoàn mới cân đối được tài chính. Song, do giá than cho điện chậm điều chỉnh trong lúc sản lượng than tiêu thụ cho điện lại vượt kế hoạch, thì tình hình tài chính hiện nay của ngành than rất khó khăn. Từ năm 2012, Vinacomin đã phải tạm thời giảm đất bóc, tiền lương, khấu hao… để đảm bảo các hệ số tài chính ở mức an toàn tối thiểu cần phải cam kết với các nhà tài trợ vốn. Năm 2013, tập đoàn đã nỗ lực cố gắng, tiếp tục thực hiện các biện pháp tiết giảm chi phí (cắt giảm tiếp 5-10%), chọn nơi có giá thành thấp nhất để tạm thời tăng sản lượng khai thác tối đa trước, lùi sản lượng nơi có giá thành cao nhưng sản xuất than vẫn không có lãi. Riêng các chỉ tiêu đất bóc, đào lò, Vinacomin đang chỉ đạo phải đảm bảo hệ số kỹ thuật và không giảm tiếp lương của thợ mỏ. Vì nếu không giữ được hệ số bóc kỹ thuật thì các mỏ lộ thiên sẽ vi phạm nghiêm trọng an toàn bờ mỏ, dẫn tới nguy cơ mất an toàn lao động. Nếu tiếp tục giảm lương lại ảnh hưởng tới đời sống của thợ mỏ và dẫn tới một bộ phận thợ lò bỏ việc. Nghịch lý ở chỗ, ngành than đang thiếu lao động thợ lò nên rất khó khăn trong việc ổn định sản xuất hiện nay và đảm bảo yêu cầu gia tăng sản lượng phục vụ nhu cầu năng lượng của đất nước trong thời gian tới. Trước những khó khăn như vậy, Vinacomin đã chuẩn bị kịch bản như thế nào cho hoạt động sản xuất, kinh doanh 6 tháng cuối năm? Vinacomin cũng đã tính toán phương án sản xuất cho 6 tháng cuối năm theo các kịch bản khi thuế xuất khẩu tăng. Theo đó, đề ra phương án tối thiểu là tình hình kinh tế vẫn tăng trưởng chậm như hiện nay và thuế xuất khẩu than 13%; phương án tối đa là nếu thị trường quý IV/2013 được cải thiện, giá cả tăng lên bù đắp được khoản tăng thuế để tiếp tục xuất khẩu như hiện nay. Theo phương án tối thiểu, Vinacomin cố gắng tối đa cũng chỉ xuất khẩu được khoảng 300-500 ngàn tấn/tháng (so với hiện nay 1,2-1,3 triệu tấn/tháng) và 6 tháng cuối năm dự kiến xuất khẩu 2-3 triệu tấn. Tức là cả năm dự kiến chỉ xuất khẩu tối đa được khoảng 9,5 triệu tấn (giảm 5 triệu tấn so với năm 2012) và tổng sản lượng than tiêu thụ sẽ giảm so với năm 2012. Tuy nhiên, để hạn chế tối đa ảnh hưởng tới việc làm của người lao động, tập đoàn đã có định hướng chỉ đạo: Ưu tiên đảm bảo ổn định việc làm cho thợ lò, cắt giảm sản lượng ở một số đơn vị đặc biệt là các công ty lộ thiên chỉ đảm bảo được việc làm ở mức tối thiểu, một số thiết bị cần thiết phải tạm thời niêm cất và dự kiến than tồn kho cuối năm một số chủng loại sẽ tăng so với hiện nay.
Theo kế hoạch, năm 2013, Vinacomin sẽ sản xuất và tiêu thụ 43 triệu tấn than. Sau những diễn biến thị trường 6 tháng đầu năm, tập đoàn có kế hoạch điều chỉnh lại sản lượng cả năm không, thưa ông? Như đã phân tích ở trên, nếu thuế xuất khẩu tăng thì chắc chắn sản lượng than xuất khẩu sẽ giảm mạnh và Vinacomin sẽ phải điều chỉnh lại sản lượng cả năm vì dự kiến cả năm có phấn đấu cũng chỉ tối đa bằng mức sản lượng năm 2012 (do tăng than bán vào điện nhưng giá bán còn thấp), giảm 4 triệu tấn so với kế hoạch. Như vậy, cân đối tài chính của ngành than sẽ tiếp tục khó khăn; công ăn việc làm, thu nhập của CNVC lao động ngành than sẽ bị giảm sút (dự kiến 6 tháng đã giảm 5% so với năm 2012); gần 15 ngàn lao động sẽ thiếu việc làm cùng với gia đình họ không đảm bảo được thu nhập, ảnh hưởng, tác động xấu đến đời sống, an sinh xã hội trên địa bàn. Bên cạnh đó, có một số không nhỏ lực lượng lao động của các doanh nghiệp đang thực hiện hợp đồng với các doanh nghiệp ngành than trong việc bóc xúc đất đá, vận tải và cung ứng các dịch vụ cơ khí sửa chữa, thương mại... cũng sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Bình luận của ông về mức thuế xuất khẩu than hiện nay của Việt Nam so với các nước khác và kiến nghị của tập đoàn? Trên thị trường thế giới và khu vực, hiện nay thuế xuất khẩu than 10% của Việt Nam thuộc nhóm nước có thuế suất cao. Nhìn sang các nước: Indonesia hàng năm sản xuất khoảng 390 triệu tấn, xuất khẩu khoảng 300 triệu tấn thì thuế xuất khẩu là 0% ; Úc có sản lượng tương đương Indonesia cũng áp dụng thuế xuất khẩu 0%; Trung Quốc sản xuất trên 3,6 tỷ tấn than/năm, vừa xuất khẩu và nhập khẩu hàng trăm triệu tấn/năm, nhưng thuế xuất cũng chỉ có 10%, riêng than Coking coal từ đầu năm 2013 đã được nước này giảm từ 40% xuống còn 0%; Mông Cổ áp dụng thuế xuất khẩu than tùy theo chủng loại chất lượng cao thì thuế suất cao hơn nhưng tối đa không quá 7%; Nga tính thuế từ 0 - 5%... Với mức thuế suất thuế xuất khẩu hiện nay là 10% thì như phân tích ở trên, ngành than đã phải giảm tiền lương nhiều bộ phận, điều chỉnh chỉ tiêu công nghệ, chọn nơi thuận lợi hơn để khai thác trước để giảm giá thành, để tiêu thụ được than. Tuy nhiên, biện pháp này cũng chỉ tạm thời (tính theo tháng, quý). Nếu kéo dài sẽ ảnh hưởng tới sự phát triển bền vững theo Quy hoạch của ngành than. Nguy cơ thiếu lao động cho sản xuất, cơ sở hạ tầng, môi trường… bị ảnh hưởng. Vì vậy, để ngành than chủ động điều hành, ổn định sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, đồng thời cũng đảm bảo thuận lợi, minh bạch trong tính toán thuế suất, tập đoàn đã đề nghị xem xét cơ chế thuế suất thuế xuất khẩu than theo mức giá than trên thị trường thế giới bình quân hàng quý. Trong giai đoạn hiện nay có thể xem xét ở mức: (1) Khi giá than bình quân (tính theo loại cám 11AHG) dưới 75USD/tấn thì mức thuế suất là 10%. (2) Khi giá than bình quân (tính theo loại cám 11AHG) từ 75 đến dưới 85USD/tấn thì mức thuế suất là 15%. (3) Khi giá than bình quân (tính theo loại cám 11AHG) trên 85USD/tấn thì mức thuế suất là 20%. Trong các năm sau, khi giá thành sản xuất tăng do khai thác xuống sâu hơn thì giá than xuất khẩu các mức sẽ tăng thêm. Xin cảm ơn ông! Hoàng Mai (thực hiện) Ngành than đối mặt với nguy cơ thiếu lao động nghiêm trọng PHẢN HỒI
|
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét